Trị vì Lê Tương Dực

Hưng trị

Vừa khi lên ngôi, Tương Dực đã trọng thưởng các công thần. Ông ra chỉ ban thưởng như sau:

Nguyễn Văn Lang từ Nghĩa quận công (義郡公) lên làm Nghĩa quốc công (義國公); Lê Quảng Độ từ Thiệu quận công (紹郡公) lên làm Thiệu quốc công (紹國公); Lê Phụ (黎輔) từ Lượng quận công (諒郡公) lên làm Lượng quốc công (諒國公); Lê Bá Lân (黎伯璘) từ Uy quận công (威郡公) lên làm Uy quốc công (威國公); Trịnh Duy Đại (鄭維岱) từ Hộ bộ Thượng thư lên làm Văn quận công (文郡公); Trịnh Hựu (鄭侑) từ Thụy Dương hầu (瑞陽侯) lên làm Thọ quận công (壽郡公); Lê Mậu Chiêu (黎荗昭) từ Phò mã Đô úy lên làm Diên quận công (延郡公); Nguyễn Hoằng Dụ được ban làm An Hòa hầu (安和侯); Trịnh Duy Sản làm Mỹ Huệ hầu (美惠侯); Nguyễn Bá Tuấn (阮伯俊) từ Tổng binh chiêm sự Thanh Hóa thành Lễ bộ Thượng thư, tước Do Lễ bá (由禮伯); Lê Tung từ Thanh Hóa Thừa tuyên sứ thành Lại bộ Thượng thư, tước Đôn Thư bá (敦書伯); Nguyễn Thì Ung (阮時雍) từ Thanh Hóa Tham chính thành Ngự sử đài Đô ngự sử, tước Lương Văn bá (良文伯); Đàm Thận Huy (譚慎徽) được phong Hình bộ Thượng thư, Hàn lâm viện Thị độc, chưởng quản Hàn lâm viện; Lương Đắc Bằng (梁得朋) được làm Lại bộ tả Thị lang.

Bàn đặt quan Đề lĩnh, có các chức Chưởng đề lĩnh, Đồng đề lĩnh và Phó đề lĩnh, trông nom việc quân ở bốn mặt thành, chức trách là tuần phòng ở Kinh sư, canh phòng các nơi, tìm bắt kẻ gian.

Trong những năm đầu cầm quyền, Tương Dực cũng có vài đóng góp thể hiện sự cố gắng vực dậy đất nước đã suy tàn, nhất là trong lĩnh vực khoa cử. Năm 1511, ông tổ chức kỳ thi Hội, đến kỳ thi Đình thì ông đích thân ra đề văn hỏi về đạo trị quốc. Ông cho trùng tu Quốc Tử Giám, dựng lại bia tiến sĩ tỏ rõ sự khuyến khích hiền tài. Đông các Đại học sĩ Đỗ Nhạc đã soạn bài ký ở Quốc Tử giám ca ngợi công đức của Tương Dực Đế:

Hoàng đế thông minh xứng đáng bậc chí tôn, sáng suốt làm gương cả nước, khôi phục quy mô xây dựng cơ nghiệp của Thái Tổ Cao Hoàng, mở rộng nền móng văn giáo thịnh trị của Thánh Tông Thuần Hoàng. Sáng vầng sao Khuê, ngang trời dọc đất thì có tập Bảo thiên thanh hạ; mở gương trị giáo mẫu mực xưa nay thì có tập Quang thiên thanh hạ. Thánh học ngày càng cao minh, thánh đức ngày càng thuần túy. Hơn nữa, đến nhà Thái Học hỏi về đạo trị nước, ra nơi điện đình thi chọn bọn học trò, then máy cổ võ lại càng chu đáo lắm. Đã sai quan trùng tu Quốc tử giám và làm mới nhà bia, lại nghĩ tới hai khoa Ất Sửu, Mậu Thìn chưa có dựng bia, liền sai quan khắc bia soạn ký để dựng lên. Như vậy có thể thấy được cái ý tôn sùng đạo học, khuyến khích hiền tài sâu sắc dường nào!

Việc thuế má thời bấy giờ cũng như mấy triều trước, nhưng không biết rõ tiền tài sản vật đồng niên thu được những gì. Đến đời Tương Dực thấy sử chép rằng trước thì thuế vàng thuế bạc đồng niên thu được: Vàng mười, thứ tốt gọi là "kiêm kim" 480 lượng; Vàng mười 2.883 lượng; Bạc 4.930 lượng.

Nay, Tương Dực định lệ đổi lại mỗi năm thu được: Vàng mười thứ "kiêm kim" 449 lượng; Vàng mười 2.901 lượng; Bạc 6.125 lượng. Những vàng bạc đó nộp vào kho để cho hoàng gia tiêu dùng. Còn cách thu nộp thế nào cũng không rõ.

Năm 1510, Lê Tương Dực sai Binh bộ Thượng thư, Quốc tử giám Tư nghiệp kiêm Sử quan Đô tổng đài Vũ Quỳnh soạn bộ Đại Việt thông giám thông khảo, gọi tắt là Đại Việt thông giám hay Việt giám thông khảo. Đại Việt thông giám chép theo lối biên niên các triều đại, gồm 26 quyển, chia thành Ngoại kỷ, chép từ thời Hồng Bàng đến hết nhà Ngô, và Bản kỷ, từ thời Đinh Tiên Hoàng đến khi Lê Thái Tổ bình định thiên hạ.[1] Nhà vua còn sai Thiếu bảo Lễ bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu tri kinh diên sự Lê Tung soạn bài tổng luận về bộ sử ấy. Theo sĩ phu thời Nguyễn Phan Huy Chú, bộ sách này được Lê Nại đánh giá là quy mô và đúng với kinh, trúng với sử. Cũng trong thời Tương Dực, Vũ Quỳnh soạn sách Tứ triều bản kỷ (四朝本紀) chép biên niên bốn triều vua Lê Thánh Tông, Hiến Tông, Túc TôngUy Mục.[8] Rất có thể đây là tài liệu quan trọng mà sau này nhóm Phạm Công Trứ dựa vào để hoàn tất biên soạn Đại Việt Sử ký Toàn thư.

Nội loạn Trần Tuân

Ngày 11 tháng 11 năm 1511, người làng Quang Bị, huyện Bất BạtTrần Tuân nổi loạn ở vùng Sơn Tây. Bấy giờ, nhân dân các phố xá ở kinh thành náo động, đều đem vợ con về quê quán, đường phố không còn một ai đi lại. Hoàng đế sai Hộ bộ hữu Thị lang Lê Đĩnh Chi, cùng các quan khoa, đài đi khám xét các phố xá hàng chợ, xem người nào còn nhà ở, người nào vợ con đã về quê quán, ra lệnh cấm rất nghiêm ngặt, xử tội rất nặng những người đã cho vợ con về quê quán, dân chúng khó bè nhắc chân động tay. Những người đã để vợ con về quê, thì phần nhiều đem người khác đến, nói dối là vợ con mình để đợi sai quan tới khám xét. Đến đây, lại sai xá nhân đến tận nhà các đại thần và văn thần xem thực hư ra sao, thì thấy vợ con của 5 người là bọn Lê Đĩnh Chi, Nguyễn Tông Thốc, Nguyễn Lý Quang và Hàn lâm Kiểm thảo Ngô Tuy, Giám sát Ngự sử Trần Húc đều về nguyên quán. Hoàng đế sai giết bọn Đĩnh Chi ở ngã ba phường Đông Hà, vì bọn Đĩnh Chi làm quan đi khám xét mà vợ con lại trốn về quê trước, cho nên xử tội.

Tương Dực sai Mỹ Huệ hầu Trịnh Duy Sản chỉ huy quan quân đi đánh Trần Tuân. Bấy giờ, quân của Tuân đã bức sát đến huyện Từ Liêm (Quốc Oai), quan quân bại trận, lui về đóng ở các xứ Đông Ngạc, Nhật Chiêu.

Thế quân của Tuân rất mạnh, muốn bức sát kinh thành. Nghĩa quốc công Nguyễn Văn Lang sai quân 6 vệ Điện tiền kéo thuyền Tiểu Thiên Quang xuống sông, định đưa hoàng đế ngự về Thanh Hóa, giữ nơi hiểm yếu rồi gọi hết bọn thợ của các sở ở Công bộ và thợ thường ban, bày kỵ binh ở xứ Đông Hà để giữ. Đến đêm, bọn họ hoảng sợ trốn về cả. Tương Dực sai Minh Luân bá Lê Niệm, Tổng Thái giám Lê Văn Huy và 2 người khoa văn học sinh đem lực sĩ của hai ty Hải ThanhHà Thanh chèo hai chiếc thuyền nhẹ ra xứ Từ Liêm để dò xét tình hình quân giặc.

Niệm đến chợ An Giang trước thấy phố xá bị thiêu trụi, quan quân đã bại trận rút về, vượt sông vào xã Quả Hối. Niệm lại chạy về, vào điện tâu trước mặt Tương Dực. Bấy giờ, Duy Sản bị giặc đánh bại, thủ hạ chỉ còn hơn 30 người, xé áo làm hiệu, thề cùng nhau đánh giặc. Giờ Dậu, Duy Sản thình lình xuất hiện, đột nhập vào dinh của Tuân, thấy Tuân mặc áo đỏ ngồi trên giường, liền dùng giáo đâm chết Tuân, bè đảng của Tuân đều tan chạy cả. Bấy giờ quân lính của Tuân đóng ở chỗ khác, không biết là nghịch Tuân đã chết, vẫn cứ đóng quân như trước.

Ngày 20, Tương Dực làm lễ tấu cáo ở Thái Miếu, rồi sai Nguyễn Văn Lang đem tướng sĩ, voi ngựa của các doanh đi đánh. Bấy giờ, Duy Sản đã giết Trần Tuân, liền thừa thế bắn ba tiếng súng, các quân đánh trống hò reo tiến vào, đánh tan quân giặc, đuổi theo đến các xã Thuỵ Hương, Quả Động, Đông Ngạc, đâm chết rất nhiều. Sau này định công ban thưởng, ban phong Trịnh Duy Sản là Nguyên quận công (原郡公), những người đi theo Duy Sản đâm chết được nhiều giặc đều được trao chức đô chỉ huy đồng tri.

Suy trị

Năm 1513, hoàng đế Đại MinhVũ Tông sai Phan Huy Tăng (潘希曾) đi sứ, sắc phong Tương Dực làm An Nam quốc vương (安南國王). Đến khi trông thấy ông, Huy Tăng nói với người đồng hành là Nhược Thủy rằng: Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lại lệch, tính háo dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không lâu đâu (安南國王貌羙而身傾性好滛乃諸王也乱亡不久矣), nên từ đấy có lời dị gọi ông là Trư vương (豬王). Ông có bài thơ họa lại tiến sứ thần về nước.

Lời nói của sứ thần Đại Minh như báo hiệu cho nghiệp trị nước của Tương Dực sớm lụi tàn. Những năm về sau, ông chỉ lo xây cất nhà cửa, lâu đài, chơi bời xa xỉ trụy lạc. Tháng 5 năm 1514, nghe lời của Hiệu úy Hữu Vĩnh, Tương Dực giết chết 15 vương công, cho gọi các cung nhân của triều trước vào cung để gian dâm.

Năm 1516, hoàng đế cho đắp thành rộng cả ngàn trượng chắn ngang sông Tô Lịch. Để thể hiện uy quyền đế vương, ông sai một người thợ là Vũ Như Tô xây điện 100 nóc, xây Cửu Trùng Đài. Quân dân làm trong mấy năm trời không xong, hao tổn tiền của, chết hại nhiều người. Bỏ bê việc nước, chỉ ngày ngày du ngoạn Tây Hồ, Tương Dực nghĩ ra nhiều trò quái lạ. Thói trụy lạc của Tương Dực ngày càng lộ rõ khi ông ra lệnh làm thuyền chiến thật trang hoàng lộng lẫy rồi bắt các cung nữ trần truồng, tay cầm cái chèo đánh nhịp làm đại nhạc để hoàng đế thưởng sắc.

Sự sa đọa của Tương Dực sách Đại Việt sử ký toàn thư đã chép:

Trước đây, vua thích làm nhiều công trình thổ mộc, đắp thành rộng lớn mấy ngàn trượng, bao quanh điện Tường Quang, quán Chân Vũ, chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ, từ phía đông đến phía tây bắc, chắn ngang sông Tô Lịch, trên đắp hoàng thành, dưới làm cửa cống, dùng ngói vỡ và đất đá nện xuống, lấy đá phiến và gạch vuông xây lên, lấy sắt xuyên ngang. Lại sai làm thuyền chiến, sai thợ vẽ kiểu, sai bọn nữ sử trần truồng chèo thuyền chơi trên Hồ Tây, vua cùng chơi, lấy làm vui thích lắm. Dân chúng đau khổ, binh lính mệt nhọc. Quân năm phủ đắp thành chưa xong được, đến đây lại có lệnh bắt các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất. Vua hàng ngày bất thần ngự chơi các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng, bài bạc. Có chỗ đã làm xong lại phải làm lại, sửa đổi xây đắp lại, hết năm này qua năm khác, liên miên không dứt. Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến một phần mười.

— Đại Việt sử ký toàn thư